EVN: Nguy cơ thiếu điện tăng cao khi khí cho sản xuất chỉ đáp ứng 66%
Theo dự báo của EVN, trong 3 tháng cuối năm 2019 và những năm tiếp theo nguồn khí cho phát điện đang ngày một cạn dần khiến cho khả năng đáp ứng nhu cầu điện ngày một tăng cao của ngành điện gặp khó khăn.
Theo Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), trong 3 tháng cuối năm 2019 và các năm tiếp theo, việc vận hành hệ thống điện của EVN đối mặt với nhiều khó khăn. Đặc biệt, nguồn khí cho phát điện trong thời gian tới còn khó khăn hơn nữa.
Cụ thể, theo EVN nhu cầu điện dự báo tiếp tục tăng trưởng cao, trong khi hệ thống điện hầu như không có dự phòng nguồn điện; mực nước các hồ thủy điện đang ở mức rất thấp, đặc biệt các hồ thủy điện lớn trên dòng sông Đà đang ở mức nước thấp hơn rất nhiều so với cùng kỳ các năm gần đây.
Cùng với đó, việc cung ứng than cho phát điện hết sức khó khăn, các nhà máy nhiệt điện đã và đang phải huy động cao; tổng công suất các nguồn điện năng lượng tái tạo đã đưa vào vận hành và dự kiến tiếp tục tăng cao ảnh hưởng đến việc vận hành an toàn, ổn định hệ thống điện...
Riêng đối với các nguồn phát điện từ khí đốt thì đây cũng là thành phần quan trọng với tỷ lệ tham gia trong cơ cấu nguồn phát là khoảng 13% về công suất và 18% về sản lượng. Tuy nhiên, những năm gần đây nguồn khí trong nước đã dần suy giảm, và dự báo còn tiếp tục khó khăn hơn nữa trong thời gian tới.
Cũng theo EVN, trong giai đoạn từ năm 2020-2025, dự kiến nhu cầu khí cho phát điện trung bình sẽ rất cao từ 8,5 - 9,5 tỷ m3/năm trở lên, nhưng ngay cả với thời điểm hiện tại thì khả năng cung cấp khí của Tổng Công ty Khí Việt Nam (PVGas) luôn thấp hơn nhiều so với nhu cầu.
Theo dự báo kế hoạch cung cấp khí cho phát điện, khả năng cấp khí cho các nhà máy điện khu vực Đông Nam bộ dự kiếntừ 6,5 - 7,5 tỷ m3/năm trong giai đoạn 2020-2023, tăng lên trên 9 tỷ m3/năm trong 2 năm 2024 - 2025, và giảm dần trong các năm tiếp theo.
Tuy nhiên, khả năng cấp khí trong giai đoạn 2020-2030 lại phụ thuộc nhiều vào tiến độ các nguồn khí mới như Sao Vàng – Đại Nguyệt, các dự án đường ống Nam Côn Sơn giai đoạn 2, cảng LNG Thị Vải và khả năng khai thác các mỏ hiện hữu do đã bước vào giai đoạn suy giảm.
Khả năng cấp khí cho các nhà máy điện khu vực Tây Nam bộ trong trường hợp không ký được hợp đồng mua khí bổ sung từ Petronas là 1,06 tỷ m3/năm và trong trường hợp mua được khí bổ sung có thể cấp được từ 1,8 - 2,1 tỷ m3/năm.
Bên cạnh đó, để hoàn thành nghĩa vụ hợp đồng với các nhà máy điện BOT, PVGAS cho biết từ ngày 1/1/2020 sẽ chỉ cung cấp khí cho các nhà máy điện khu vực Đông Nam bộ tối đa khoảng 13,524 triệu m3/ngày và trước đó từ ngày 13/10/2019 sản lượng khí cấp cho các nhà máy điện khu vực Tây Nam bộ bị giảm xuống còn 2,5 triệu m3/ngày (trong trường hợp không thống nhất được giá mua khí bổ sung từ Petronas).
Với kế hoạch này, tổng lượng khí cấp trung bình ngày cho phát điện từ cả hai nguồn khí Đông Nam bộ và Tây Nam Bộ dự kiến chỉ còn khoảng 16 triệu m3/ngày, thấp hơn so với hiện nay từ 4-5 triệu m3/ngày, tức là chỉ đáp ứng được khoảng 53% nhu cầu phục vụ phát điện giai đoạn từ 2020 trở đi. Riêng trong năm 2020, tổng lượng khí dự kiến cấp cho phát điện chỉ khoảng 6 tỷ m3, thấp hơn nhiều so với kế hoạch.
Theo EVN, hiện nay, khả năng cấp khí của lô 06.1 và 11.2 (cấp cho khu vực Đông Nam bộ) đã suy giảm đáng kể, với sản lượng hiện khai thác lần lượt là 8 triệu và 1,6 triệu m3/ngày thay vì 16 triệu và 5 triệu m3/ngày như trước đây. Theo đó, việc thiếu khí lô 06.1 và 11.2 sẽ ảnh hưởng tới việc hoàn thành nghĩa vụ hợp đồng với các nhà máy điện BOT.
Nếu duy trì sản lượng khai thác khí từ lô 06.1 và 11.2 như hiện nay, thì sẽ thiếu khí cho các nhà máy điện BOT từ năm 2023; dự kiến tổng lượng khí thiếu cho các nhà máy điện BOT cho đến khi hết hợp đồng vào năm 2025 là 3,01 tỷ m3.
EVN cũng cho biết, từ đầu năm 2019 đến nay, việc cung cấp khí đốt cho phát điện chỉ đáp ứng khoảng 66% nhu cầu. Trước những khó khăn trong việc khai thác nguồn điện khí phục vụ phát điện, EVN và PVGas đã xây dựng các phương án cấp khí nhanh cho khu vực Đông Nam bộ từ nguồn khí thiên nhiên hóa lỏng (LNG).
Trước mắt, để đảm bảo cung cấp điện trong năm, EVN đã đề nghị PVGas duy trì cung cấp khí cho khu vực Đông Nam bộ ở mức 18,38 triệu m3/ngày; đẩy nhanh tiến độ đàm phán với Petronas, đảm bảo lượng khí cấp cho các nhà máy điện Cà Mau - khu vực Tây Nam bộ như hiện nay, ở mức khoảng 4,18 triệu m3/ngày.
Bên cạnh đó, EVN tiếp tục triển khai đồng bộ các giải pháp giải tỏa công suất các nguồn điện năng lượng tái tạo; tập trung huy động cao sản lượng điện từ các nhà máy nhiệt điện than, đồng thời huy động thêmcác nguồn nhiệt điện dầu giá cao với mục tiêu đảm bảo cung cấp điện phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội.
Theo Tạp chí Điện tử
Tối thiểu 10 chữ Tiếng việt có dấu Không chứa liên kết
Gửi bình luận