Kinh nghiệm quốc tế trong việc triển khai mô hình “logistics hai chiều” phục vụ thương mại điện tử khu vực nông thôn

 2025-03-11 12:44:47
NIICS

Trong bối cảnh kinh tế số phát triển mạnh mẽ, thương mại điện tử (TMĐT) đang trở thành công cụ quan trọng giúp thu hẹp khoảng cách giữa khu vực thành thị và nông thôn. Tuy nhiên, sự phát triển của TMĐT tại khu vực nông thôn vẫn gặp nhiều thách thức, trong đó có vấn đề về logistics—một yếu tố then chốt quyết định hiệu quả của chuỗi cung ứng và lưu thông hàng hóa. Để giải quyết bài toán này, nhiều quốc gia đã triển khai mô hình “logistics hai chiều” nhằm tối ưu hóa quá trình vận chuyển hàng hóa giữa thành phố và nông thôn, thúc đẩy tiêu thụ nông sản và cung cấp hàng tiêu dùng đến khu vực xa trung tâm. Bài viết này sẽ phân tích kinh nghiệm của một số quốc gia điển hình như Trung Quốc và Nhật Bản trong việc phát triển logistics hai chiều gắn với TMĐT nông thôn, từ đó rút ra bài học có thể áp dụng tại Việt Nam.

Hiện tại, rất nhiều quốc gia đang coi việc thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, khuyến khích và áp dụng các biện pháp lưu thông hàng hóa, tạo điều kiện cho người dân dễ dàng tiếp cận và sử dụng nông sản là giải pháp quan trọng để thúc đẩy kinh tế nông thôn và giảm nghèo. Tuy nhiên, nông dân gặp nhiều khó khăn như năng suất thấp, thiếu vốn và gián đoạn trong sản xuất do thiên tai, đầu cơ.  Hơn thế nữa, sự phát triển chênh lệch giữa thành thị và nông thôn gây ra rào cản lớn trong phát triển xã hội, dẫn đến di cư và ảnh hưởng môi trường sống. Chính phủ các nước đã đưa ra các giải pháp hỗ trợ người nông dân, thu hẹp khoảng cách giữa thành thị và nông thôn và khuyến khích ứng dụng công nghệ để phát triển bền vững, đặc biệt là chuyển đổi số “tam nông” (nông nghiệp, nông dân, nông thôn), hướng đến việc thông qua nền tảng số thương mại điện tử (TMĐT). Mặc dù vậy, sự hạn chế về logistics và dịch vụ TMĐT sẽ khiến cho chi phí giao dịch cao, giảm lợi thế của TMĐT so với giao dịch truyền thống.

Để giải quyết tình trạng này, nhiều quốc gia đã triển khai mô hình “logistics hai chiều” gắn với TMĐT nông thôn thông qua việc hình thành mạng lưới “hạ tầng hai chiều, nông sản vào thành phố, phương tiện sản xuất nông nghiệp và hàng tiêu dùng chuyển về nông thôn” đã tạo ra được hệ sinh thái tiêu dùng khép kín gồm: Nông dân, người tiêu dùng thành phố, nền tảng TMĐT, người bán hàng tiêu dùng và vật tư nông nghiệp, các doanh nghiệp logistics (trong đó có doanh nghiệp bưu chính) để tích hợp hiệu quả các nguồn lực hiện có nhằm phát triển TMĐT nông thôn hiện đại và hiệu quả cao.

1. Trung Quốc

Thị trường TMĐT tại nông thôn Trung Quốc được đánh giá là một thị trường tiềm năng với quy mô tăng trưởng cao. Về tổng thể, quy mô thị trường mua sắm trực tuyến ở nông thôn năm 2023 đạt 2,49 nghìn tỷ Nhân dân tệ (so với năm 2015 là 0,35 nghìn tỷ Nhân dân tệ), với mức tăng trưởng theo năm là 19,1%, cao hơn 2,6% so với bán lẻ trực tuyến toàn Trung Quốc.[1]

t3

Biểu đồ: Quy mô thị trường mua sắm trực tuyến tại nông thôn giai đoạn 2015-2023

Tuy nhiên thị trường TMĐT tại nông thôn đang gặp hai thách thức liên quan tới logistics. Thứ nhất, chi phí logistics tại nông thôn cao. Số liệu thống kê của Trung tâm thông tin logistics Trung Quốc, tổng chi phí logistics tại Trung Quốc chiếm tới 18% GDP[2]. Trong đó, chi phí logistics nông thôn Trung Quốc cao hơn ở thành phố, khi khoảng cách giao hàng trong vòng 20km, chi phí giao hàng đến thành phố bằng 1/2 so với nông thôn.[3] Thứ hai, cơ sở hạ tầng logistics nông thôn không đáp ứng nhu cầu hàng hóa nông sản do mạng lưới phân phối chưa đủ tập trung, địa bàn phân tán nên khó thiết lập hệ thống quản lý kho bãi, dẫn đến Bưu điện và các doanh nghiệp logistics thứ ba ở các làng và thị trấn hoạt động độc lập, khó đạt được phạm vi giao hàng bao phủ toàn diện.

Vai trò của Chính phủ

Trung Quốc coi việc sử dụng nền tảng TMĐT nông thôn là công cụ nhằm triển khai mô hình logistics 2 chiều đạt mục đích hiện thực hóa mục tiêu 'sản phẩm công nghiệp giảm' và 'sản phẩm nông nghiệp tăng': 'sản phẩm công nghiệp giảm' có nghĩa giúp các sản phẩm công nghiệp thâm nhập vào thị trường nông thôn. 'sản phẩm nông nghiệp tăng' ám chỉ việc sử dụng công nghệ Internet để bán các sản phẩm nông nghiệp từ các vùng nông thôn đến mọi miền đất nước, đặc biệt là các thị trường thành thị. Điều này được Chính phủ Trung Quốc cụ thể hóa thông qua: (i) Chính sách của Chính phủ; (ii) Đồng bộ hệ thống cơ sở hạ tầng logistics, hạ tầng số: cơ sở hạ tầng và hậu cần, khả năng truy cập Internet và mạng di động, khả năng tiếp cận đường bộ và mạng lưới logistics; (iii) Phát triển nền tảng số phục vụ người dân.

Về các chính sách chung, trong giai đoạn 2015-2020, Chính phủ Trung Quốc đã ban hành một loạt các chính sách tập trung phát triển TMĐT tại khu vực nông thôn[4]. Các chính sách này hướng tới hỗ trợ các doanh nghiệp TMĐT, logistics, thương mại, tài chính, và các doanh nghiệp khác tham gia vào nền tảng TMĐT phục vụ thị trường nông thôn, đẩy nhanh hình thành mạng lưới “logistics hai chiều” kết nối khu vực nông thôn và thành thị, nông sản vào thành phố, phương tiện sản xuất nông nghiệp và hàng tiêu dùng chuyển về nông thôn.

Về phát triển hạ tầng logistics 2 chiều khu vực nông thôn, Trung Quốc ban hành các chính sách, biện pháp hỗ trợ về cơ sở hạ tầng, mạng lưới logistics, nhà điều hành, triển khai áp dụng mô hình hoạt động logistics hai chiều. Ngoài ra, để thực hiện đồng bộ các chính sách một cách hiệu quả, một loạt các cơ quan Nhà nước đã phối hợp với nhau.[5] Chính phủ Trung Quốc còn thành lập Quỹ tài chính[6] nhằm hỗ trợ kinh phí cho các địa phương triển khai thử nghiệm mô hình logistics hai chiều tại một số địa phương chọn lọc.

Nhờ các chính sách đồng bộ, cơ sở hạ tầng logistics hai chiều nông thôn đã có nhiều bước tiến đáng kể. Hệ thống đường bộ được được chú trọng đầu tư[7], đảm bảo kết nối các khu vực xa xôi với mạng lưới phân phối. Dịch vụ bưu chính được cải thiện và mở rộng khắp các vùng nông thôn.[8] Trung Quốc đã xây dựng nền tảng thông tin công cộng về logistics và vận tải quốc gia với sự tham gia của khoảng 300.000 doanh nghiệp, giúp tiết kiệm 550 triệu nhân dân tệ chi phí cho logistics mỗi năm. Hơn thế nữa, các nền tảng TMĐT Trung Quốc cũng phát triển mạnh mẽ, như Taobao, Pindoudou,… đã dẫn đầu thị trường nội địa.

Phát triển các nền tảng số bản địa phục vụ nông thôn

Với vi ̣thế của một cường quốc hàng đầu thế giới về kinh tế số và TMĐT, Trung Quốc đã tạo ra được một không gian rộng lớn cho các doanh nghiệp công nghệ số của nước này cạnh tranh và phát triển thông qua việc ban hành các chính sách phát triển kinh tế số bao gồm 2 điểm chính: (i) Bảo hộ thị trường số, hạn chế doanh nghiệp nước ngoài; (ii) Hỗ trợ phát triển thị trường nội địa và tạo điều kiện thúc đẩy doanh nghiệp trong nước. Quyết định bảo hộ thi ̣trường công nghệ số đã tạo cho doanh nghiệp trong nước của Trung Quốc vi ̣thế độc quyền trước các đối thủ cạnh tranh nước ngoài. Nhiều doanh nghiệp công nghệ Trung Quốc đã tận dụng tốt cơ hội này để phát triển, điển hình trong đó là ba doanh nghiệp mũi nhọn của nền kinh tế số Trung Quốc: Alibaba – TMĐT, Baidu – Công cụ tìm kiếm, Tencent – Mạng xã hội.

Trung Quốc triển khai sáng kiến “Doanh nghiệp đại chúng và Đổi mới đại chúng” nhằm thúc đẩy các tập đoàn công nghệ đầu tư nguồn lực  phát triển TMĐT nông thôn để thể hiện trách nhiệm xã hội. Điển hình ở đây tập đoàn Alibaba. Tập đoàn Alibaba với một hệ sinh thái TMĐT đa dạng đã thực hiện chương trình “Làng Taobao” tại khu vực nông thôn (một cụm của các doanh nghiệp TMĐT hoạt động ở khu vực nông thôn). Hoạt động của Làng Taobao bao gồm: Thiết lập mạng lưới dịch vụ TMĐT cấp quận/huyện, làng và tạo công việc mới tại nông thôn[9]; Cải thiện kết nối logistics tại nông thôn và thúc đẩy lưu thông hàng hóa và dịch vụ hai chiều[10]; Tổ chức đào tạo về TMĐT và thúc đẩy tinh thần kinh doanh[11]; Cung cấp dịch vụ tài chính nông thôn (thông qua công ty con Ant Financial của Alibaba)[12]. Sản phẩm của Làng Taobao cũng rất phong phú, từ các sản phẩm thủ công cho đến công nghệ cao. Chương trình Làng Taobao được Alibaba bắt đầu triển khai từ năm 2009 với 3 làng, đến năm 2022, số làng đã tăng lên tới 7780 làng[13]. Sự phát triển của các Làng Taobao đã chứng minh được hiệu quả của TMĐT tại nông thôn nhờ kết hợp các nguồn lực trong một mô hình.

2. Nhật Bản

Nhật Bản có tổng dân số năm 2024 là 123,7 triệu người, đứng thứ 12 thế giới[14]. Trong đó dân sống ở vùng nông thôn chỉ có 10,2 triệu người, giảm 1,49 % so với năm 2021, do chịu tác động kép của tình trạng người trẻ bỏ lên thành phố sinh sống và người già tăng nhanh.

Khu vực nông thôn với địa hình phức tạp với gần 70% là rừng, đồi núi; chỉ có 12% được canh tác và khoảng 8% được dành cho đường sá, mục đích sử dụng dân cư và công nghiệp. Việc quản lý cơ sở hạ tầng, đặc biệt là giao thông, cực kỳ phức tạp và tốn kém, điều này đặt ra thách thức nghiêm trọng về khả năng tiếp cận các dịch vụ an sinh xã hội đối với nhiều cộng đồng nông thôn.

Với thực trạng khu vực nông thôn như vậy, nhằm giảm bất bình đẳng, đảm bảo an ninh xã hội, góp phần thực hiện mục tiêu phát triển bền vững tại các cộng đồng nông thôn, Chính phủ Nhật Bản coi việc hỗ trợ nông nghiệp (hỗ trợ về sinh kế) và phát triển hạ tầng logistics 2 chiều gắn với TMĐT khu vực nông thôn là một trong những giải pháp trọng tâm nhằm phát triển khu vực này.

Về hỗ trợ nông nghiệp

Mặc dù ngành nông nghiệp chỉ đóng góp 1,0% tổng GDP năm 2020 của cả nước với khoảng 2 triệu lao động trong lĩnh vực nông lâm ngư, thủy sản (chiếm 1,6% dân số) nhưng năm 2021 Chính phủ Nhật Bản chi hơn 50 tỷ USD để hỗ trợ nền nông nghiệp phát triển[15].

Về hỗ trợ phát triển hạ tầng logistics 2 chiều gắn TMĐT

Nhật Bản coi việc phát hạ tầng logistics nông thôn gắn với TMĐT là một trong những trọng tâm nhằm giải quyết các thách thức khu vực nông thôn. Trong đó, Bộ Đất đai, Cơ sở hạ tầng và Giao thông vận tải ban hành kế hoạch logistics mới (New Logistics Plan) nhằm đáp ứng được 3 xu hướng và mục tiêu cơ bản: (i) Xây dựng cơ chế logistics hiệu quả, tiên tiến; (ii) Xây dựng cơ chế logistics phù hợp với nhu cầu của xã hội; (iii) Xây dựng cơ chế logistics có thể đảm bảo duy trì được cuộc sống người dân. Trong đó:

(i) Chính phủ Nhật Bản đã xây dựng các chính sách hỗ trợ bao gồm: Thúc đẩy dịch vụ logistics nông thôn, thúc đẩy phát triển ngành dịch vụ logistics, tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng, tối ưu hóa cơ sở hạ tầng mạng lưới.

(ii) Các tập đoàn công nghệ số (Rakuten), công ty khai thác logistics (Nippon Express, Kintetsu, Yamato) coi việc phục vụ khu vực nông thôn như một hoạt động trách nhiệm xã hội. Japan Post cũng hoạt động trên toàn quốc, với các bưu điện nông thôn cũng đóng vai trò là ngân hàng và công ty bảo hiểm. Thậm chí mặc dù các bưu điện nông thôn này không có lãi nhưng Japan Post vẫn duy trì chúng như một dịch vụ công.

(iii) Phát triển nền tảng số TMĐT bản địa nhằm thay thế những cửa hàng bị đóng cửa ở các vùng nông thôn, vì vậy dân làng Nhật Bản lại có thể mua sản phẩm cần thiết. Việc lưu thông nông sản và các sản phẩm phụ tại Nhật Bản được thực hiện trực tiếp giữa người sản xuất và người tiêu dùng.

Về hỗ trợ tài chính

Chính phủ Nhật Bản ban hành nhiều chính sách hỗ trợ về tài chính cho khu vực nông thôn như: (i) Cung cấp trợ cấp và các khoản vay lãi suất thấp cho các hợp tác xã nông thôn để nâng cao năng suất logistics; (ii) Cho các doanh nghiệp thuê hoặc bán đất với giá ưu đãi để xây dựng kho bãi hậu cần phục vụ các hoạt động logistics. Chính phủ Nhật Bản đã vận dụng tốt giải pháp công - tư kết hợp trong phát triển hạ tầng logistics. Điển hình như, trung tâm logistics Hoping Island (phía Nam Tokyo) có chi phí xây dựng là 57,2 tỷ yên Nhật; trong đó, 70% là đầu tư của các tổ chức tài chính quốc gia, 20% của các ngân hàng địa phương và 10% của các doanh nghiệp; (iii) Hỗ trợ cước giao hàng chặng cuối cho các vùng xa xôi, khó tiếp cận về giao thông.

3. Bài học kinh nghiệm

Một số bài học kinh nghiệm rút ra từ việc triển khai mô hình logistics 2 chiều gắn với thương mại điện tử khu vực nông thôn và đánh giá việc thực thi Chiến lược quốc gia phát triển dịch vụ logistics của Trung Quốc, Nhật Bản như sau:

Một là, Chính phủ có vai trò quan trọng trong việc ban hành chiến lược, định hướng, chính sách quản lý dịch vụ logistics, trong đó mô hình hệ thống logistics 2 chiều nông thôn và trở thành một phần của Chiến lược hệ thống Logistics quốc gia. Sự thành công của các quốc gia đều có dấu ấn rõ rệt của Chính phủ trong việc hoạch định chính sách, quản lý, vận hành, giám sát, điều tiết sự phát triển của ngành logistics. Các nước đều chú trọng ban hành các Chiến lược, Quy hoạch, Kế hoạch, Chương trình phát triển logistics quốc gia từ rất sớm. Các Kế hoạch này được ban hành định kỳ, phù hợp với giai đoạn phát triển của đất nước trong từng giai đoạn.

Hai là, phát triển cơ sở hạ tầng logistics 2 chiều: Chính phủ dành một khoản đầu tư lớn vào phát triển đồng bộ mạng lưới giao thông đường sắt, đường bộ và cao tốc, xây dựng và hiện đại hoá hệ thống cảng biển, sân bay, trung tâm logistics, và tích hợp giữa các hệ thống này để phát huy được vai trò của vận tải đa phương thức. Ở giai đoạn đầu của sự phát triển, phần lớn các khoản đầu tư vào cơ sở hạ tầng là từ nguồn vốn ngân sách nhà nước; ở giai đoạn sau, các quốc gia đều có xu hướng gia tăng tỷ trọng đầu tư của khu vực tư nhân vào hạ tầng giao thông.

Các công ty logistics cần lựa chọn điểm phân phối phù hợp ở khu vực nông thôn để giảm chi phí và rủi ro, nhưng hiện nay, nhiều điểm phân phối chủ yếu đặt ở các thị trấn thay vì nông thôn. Việc lập kế hoạch và xác định các điểm phân phối dựa trên khoảng cách ngắn nhất hoặc gần với các địa điểm như siêu thị có thể tối ưu hóa quá trình vận chuyển. Bên cạnh đó, việc kết hợp logistics cho sản phẩm công nghiệp, hàng tiêu dùng và nông sản giữa nông thôn và thành phố có thể giảm tình trạng xe trống, tiết kiệm chi phí vận chuyển.

Ba là, phát triển sàn thương mại điện tử quốc gia. Kinh nghiệm của ba quốc gia nghiên cứu cho thấy, việc triển khai xây dựng các sàn giao dịch TMĐT đủ sức cạnh tranh bình đẳng trên thị trường là hết sức cấp thiết để hạn chế tình trạng doanh nghiệp nước ngoài chi phối, giúp giảm các nguy cơ về an toàn, an ninh mạng, cũng như tạo cơ hội cho hàng hoá Việt Nam cạnh tranh bình đẳng trên thị trường TMĐT, cũng như thể hiện trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp này.

Năm là, chuyển đổi số trong xây dựng, quản lý, vận hành hệ thống logistics và các dịch vụ logistics. Các quốc gia đi đầu về trình độ phát triển logistics cũng là các quốc gia có đi đầu trong việc ứng dụng các tiến bộ về công nghệ trong việc cải tiến quy trình, cả ở cấp quản lý, tầm vĩ mô quốc gia và cấp doanh nghiệp. Việt Nam có thể tham khảo kinh nghiệm của các nước trong việc phát triển, ứng dụng các nền tảng này.

Sáu là, các chính sách ưu đãi cụ thể: Chính phủ các nước áp dụng chính sách ưu đãi như trợ cấp, bán đất giá thấp, ưu đãi lãi suất, miễn giảm thuế để khuyến khích đầu tư vào kho bãi và trung tâm logistics. Một số quốc gia như Trung Quốc còn thành lập Quỹ tài chính từ chính quyền trung ương để hỗ trợ triển khai mô hình logistics 2 chiều trong thương mại điện tử tại các địa phương chọn lọc.

Bảy là, khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân vào các quyết định chính sách về hoạt động logistics. Việc tham vấn rộng rãi với khu vực tư nhân cần được khuyến khích trước khi đầu tư công được phê duyệt, để đảm bảo rằng cơ sở hạ tầng được xây dựng sẽ đáp ứng nhu cầu kinh doanh thực tế, đồng thời đảm bảo rằng các sáng kiến thương mại bền vững trong dài hạn và không trở thành gánh nặng cho nguồn ngân sách công.

Tám là, xây dựng nguồn nhân lực logistics trong thương mại điện tử. Để tăng cường xây dựng đội ngũ nhân lực trong hệ thống logistics nông thôn, cần thu hút nhân tài logistic về nông thôn mà còn có thể tự mình bồi dưỡng nhân lực logistics. Đầu tiên, chính phủ có thể đưa những nhân tài về nông thôn và các doanh nghiệp cũng có thể tăng lương. Những nhân sự này cần nắm vững công nghệ thông tin và logistics điện tử. Thứ hai, các trường trung cấp nghề và đại học cung cấp các khóa học liên quan để khuyến khích tích cực sinh viên tham gia vào các công việc liên quan. Chính phủ cần đóng vai trò chỉ đạo tích cực trong việc định hướng bồi dưỡng, giới thiệu nhân lực.

Tài liệu tham khảo

1. Anthony H. F. Li, E-commerce and Taobao Villages, China Perspectives, 2017,  57-62.

2. Ali Research,  List of “Taobao Villages” and “Taobao Towns” in 2022 . Retrieved from http://www.aliresearch.com/ch/information/informationdetails? articleCode=39139238 2068854784&type=新, 2022-10-30.

3. Japan Country Commercial Guide, Retrieved from: https://www-trade-gov.translate.goog/?_x_tr_sl=en&_x_tr_tl=vi&_x_tr_hl=vi&_x_tr_pto=sc

4. Xiaoyuan Shi, Analysis on Logistics Distribution of E-Commerce Products in Rural Areas, iBusiness, 2023, 15, 112-118

5. Statista, Size of China's rural online shopping market from 2015 to 2023, Retrieved from Https://www.statista.com/statistics/746727/china-transaction-scale-of-rural-online-shopping-market

Thảo Phương

Ban Kinh tế Thị trường

Tin cùng chuyên mục

Tin mới cập nhật

Tin đọc nhiều

Công Nghệ Mới Nâng Cao Hiệu Suất Lao Động

Công Nghệ Mới Nâng Cao Hiệu Suất Lao Động

5 nguy cơ mất an toàn thông tin chủ yếu trong thời gian tới

5 nguy cơ mất an toàn thông tin chủ yếu trong thời gian tới

Việt Nam phấn đấu thuộc nhóm 30 nước dẫn đầu về an toàn, an ninh mạng

Việt Nam phấn đấu thuộc nhóm 30 nước dẫn đầu về an toàn, an ninh mạng

An toàn trong chuyển đổi số quốc gia

An toàn trong chuyển đổi số quốc gia

Quy định về hội nghị, hội thảo có nội dung bí mật nhà nước

Quy định về hội nghị, hội thảo có nội dung bí mật nhà nước

Lào muốn học kinh nghiệm tổ chức của Ủy ban quốc gia về chuyển đổi số Việt Nam

Lào muốn học kinh nghiệm tổ chức của Ủy ban quốc gia về chuyển đổi số Việt Nam

Điểm mới trong các quy định của dịch vụ Gia công đã có hiệu lực kể từ ngày 5 tháng 5 năm 2019

Điểm mới trong các quy định của dịch vụ Gia công đã có hiệu lực kể từ ngày 5 tháng 5 năm 2019

Dự thảo Luật sửa đổi doanh nghiệp sẽ tập trung vào giải quyết các vấn đề cơ bản của doanh nghiệp

Dự thảo Luật sửa đổi doanh nghiệp sẽ tập trung vào giải quyết các vấn đề cơ bản của doanh nghiệp

Tìm giải pháp hữu hiệu bảo vệ bản quyền trên môi trường kỹ thuật số

Tìm giải pháp hữu hiệu bảo vệ bản quyền trên môi trường kỹ thuật số

Video xem nhiều

Khởi động nền tảng SMEdx hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ chuyển đổi số

Khởi động nền tảng SMEdx hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ chuyển đổi số

IoT với các số ứng dụng và tiềm năng phát triển

IoT với các số ứng dụng và tiềm năng phát triển

Việt Nam thử nghiệm thành công cuộc gọi 5G đầu tiên trên thiết bị Make in Việt nam

Việt Nam thử nghiệm thành công cuộc gọi 5G đầu tiên trên thiết bị Make in Việt nam

Toàn cảnh Hội nghị Quốc gia lần thứ XXII về Điện tử, Truyền thông và Công nghệ Thông tin REV-ECIT 2019

Toàn cảnh Hội nghị Quốc gia lần thứ XXII về Điện tử, Truyền thông và Công nghệ Thông tin REV-ECIT 2019

5G - Mạng truyền tải di động tốc độ cao của tương lai

5G - Mạng truyền tải di động tốc độ cao của tương lai

Lào muốn học kinh nghiệm tổ chức của Ủy ban quốc gia về chuyển đổi số Việt Nam
 07-12-2019
Điểm mới trong các quy định của dịch vụ Gia công đã có hiệu lực kể từ ngày 5 tháng 5 năm 2019
 07-12-2019
Viện Chiến lược phải nâng tầm, “tổng chỉ huy” công tác chiến lược của Bộ TT&TT
 23-10-2024